đổi mới phương pháp dạy học môn tiếng anh

Đổi mới dạy học theo chương trình mới - Chủ động chọn phương pháp phù hợp THU TÂM15:14 25/02/2022 Kỷ luật để thành công trong việc học tiếng Anh Giải thích của Tổng chủ biên Tiếng Việt 1 chưa hướng đúng trọng tâm của dư luận Năm học 2021-2022 là năm đầu tiên Chương trình Giáo dục phổ thông (GDPT) 2018 triển khai ở lớp 2 và 6. ĐỔi mỚi phƯƠng phÁp dẠy hỌc mÔn tiẾng anh Ở trƯỜng thpt Trong việc giảng dạy bộ môn Tiếng Anh ở trường THPT nhằm mục đích trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy môn Tiếng Anh THPT Định kì các em học viên sẽ có những bài kierm ra để đánh giá quá trình học tập của các em từ đó chúng tôi sẽ có những phương hướng dạy học tiếng anh tphcm sao cho phù hợp hơn. Không những vậy hàng tuần, những giáo viên là người nước ngoài của trung tâm sẽ trực tiếp giảng dạy các bạn, đây là một cơ Trong hai ngày 23/3 và 31/3/2019, Sở GD&ĐT tỉnh Vĩnh Long tổ chức Hội giảng đổi mới phương pháp giảng dạy môn Tiếng Anh và Tin học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Mục đích của Hội giảng là tạo điều kiện cho giáo viên dạy môn Tiếng Anh và Tin học trong PHƯƠNG PHÁP : Trực quan sinh động , đàm thoại gợi mở, dạy học theo góc. III. CHUẨN BỊ : - Dụng cụ : Giá ống nghiệm , ống nghiệm . 17 model baju batik untuk orang gemuk agar terlihat langsing. Download Free PDFDownload Free PDFMối quan tâm và nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học tiếng AnhMối quan tâm và nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học tiếng AnhMối quan tâm và nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học tiếng AnhMối quan tâm và nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học tiếng AnhMinh HuỳnhKhảo sát mối quan tâm và nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh của giáo viên và học sinh trường THPT chuyên Thăng Long, Lâm Đồng Cùng với sự phát triển của xã hội và nhu cầu của cộng đồng, việc dạy và học tiếng Anh trong trường phổ thông nói chung đã có những thay đổi lớn về nội dung cũng như phương pháp giảng dạy, kiểm tra và đánh giá. Không nằm ngoài xu hướng phát triển này, trong những năm học gần đây bộ môn tiếng Anh trường THPT Hoài đức B cũng đã tích cực triển khai các hoạt động đổi mới PPDH, KTĐG do cấp trên tổ chức, chỉ đạo. Qua đó nhận thức và trình độ của CBQL và GV trong trường được nâng cao, nhiều GV có ý thức sử dụng các PPDH và KTDH tích cực. GV chủ động khai thác các nguồn tư liệu tham khảo để sử dụng trong dạy học, có chú trọng đến việc tổ chức hoạt động của HS trong dạy học, khuyến khích HS trao đổi thảo luận với nhau và thảo luận với GV trong bài học. Bên cạnh đó nhiều GV tích cực sử dụng các TBDH, ứng dụng CNTT trong dạy học và KTĐG, kĩ năng KTĐG kết quả học tập của HS được nâng cao. HS đã tích cực, chủ động hơn trong hoạt dộng chiếm lĩnh kiến thức, ngoài hoạt động học trên lớp, HS đã chủ động trong việc tìm kiếm tài liệu tham khảo để tự học, tự rèn luyện, nhiều HS có kĩ năng tốt trong việc sử dụng CNTT, khai thác các nguồn học liệu trên mạng để chiếm lĩnh kiến thức, bước đầu HS đã có ý thức tự đánh giá kết quả học tập của mình và đánh giá lẫn nhau khi được yêu cầu. Một số hoạt động trong thời gian qua được giáo viên trong tổ nhóm tích cực tham gia như thao giảng, dự giờ, thực hiện nhiều chuyên đề khác nhau, thiết kế đồ dùng dạy học, chất lượng bộ môn cũng đã dần được nâng cao. Nhà trường đã khẳng định đổi mới phương pháp dạy học phải đồng bộ với đổi mới kiểm tra, đánh giá. Việc chỉ đạo và hướng dẫn triển khai đổi mới phương pháp, hình thức dạy học, kiểm tra đánh giá của Bộ GDĐT suốt giai đoạn vừa qua được đánh giá là “có tác động tích cực” tới chất lượng giáo dục trong nhà trường. “Chìa khóa thành công của trường THPT Hoài Đức B là những chỉ đạo của lãnh đạo các cấp về đổi mới phương pháp, hình thức dạy học và kiểm tra đánh giá” – Cô giáo Hoàng Thị Quyên – Hiệu phó nhà trường đã nói. Chính việc thực hiện nghiêm túc theo chỉ đạo và hướng dẫn của Ban Giám hiệu nhà trường đã giúp nhóm ngoại ngữ được chủ động, sáng tạo thực hiện nhiều vấn đề về chuyên môn, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường nói chung và chất lượng giáo dục bộ môn tiếng Anh nói riêng. Nguyễn Thị Thu Hà Trang chủ > Giáo án - Bài giảng > Tiếng anh > Đổi mới phương pháp dạy học môn tiếng Anh ... động lời nói, đ- ợc dạy và luyện tập gắn liền với việc dạy từ mới, dạy ngữ pháp, dạy nghe và dạy nói. Hệ thống các bài tập và hoạt động dạy học đợc thiết kế theo trình tự dạy học đi từ giới thiệu ... phép học sinh có một thời gian để thích nghi với bài học mới; tạo môi trờng thuận lợi cho bài học mới; gây hứng thú cho bài học mới; giúp học sinh liên hệ những điều đã học với bài học mới; ... vựng, ngữ pháp được thực hiện xen lồng trong quá trình dạy học. Phương pháp Nghe-Nói ngăn cấm việc dùng tiếng mẹ đẻ trong lớp; khuyến khích tối đa dùng tiếng Anh trong quá trình dạy học. Quy... 55 5,637 113 Đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Anh ...  Đổi mới phương pháp dạy học dạy học GV HỒ THỊ MINH SANG Tổ Năng khiếu Năm học 2010- 2011 I. TÊN ĐỀ TÀI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌCC TRONG VIỆC PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM CỦA BỘ MÔN TIẾNG ANH ... chất lượng học sinh yếu kém Cho bộ môn tiếng Anh * Một tiết học Tiếng Anh thật là nặng nề đối với các em . Cùng với sự đổi mới của chương trình và sự thiếu ý thức tự giác, độc lập, Tiếng Anh đến ... trong môn học này. III. CƠ SỞ LÝ LUẬN - Tìm biện pháp “Nâng cao chất lượng học tập của học sinh yếu kém môn tiếng Anh là một vấn đề nan giải, rất cần thiết đối với đa số giáo viên bộ môn nói... 8 3,857 62 Một số biện pháp quản lý công tác đổi mới phương pháp dạy học môn tiếng anh ở các trường THPT huyện hương sơn tỉnh hà tĩnh luận văn thạc sỹ ... đổi mới mục tiêu, nội dung dạy học, đổi mới cơ sở vật chất và thiết bị dạy học; Đổi mới các hình thức tổ chức dạy học để phù hợp giữa dạy học cá nhân và các nhóm nhỏ hoặc cả lớp, giữa dạy học ... tuổi, hứng thú, động cơ Quản lý công tác đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Anh Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học Yêu cầu đổi mới PPDH đã được các tác giả sách quán triệt vào ... theo tình Nội dung quản lý đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Anh THPTQuản lý công tác đổi mới PPDH các bộ môn nói chung và môn Tiếng Anh THPT nói riêng là một trong những nhiệm... 125 1,800 13 Đổi mới phương pháp dạy nghe môn tiếng Anh bậc ... Việc dạy và học nghe môn tiếng Anh tuy không còn mới mẽ nh- ng khó đối với tất cả giáo viên và học sinh bậc THCS. Theo chơng trình, SGK cũ thì tiết dạy nghe không có. Việc dạy nghe môn tiếng Anh ... thuật dạy học phù hợp với một hình thức bài dạy cụ thể dạy ngữ pháp, dạy nói ,dạy viết .... c- Các phơng tiện thiết bị đồ dùng dạy học phục vụ cho việc dạy nghe - Việc sử dụng thiết bị tranh ... tiết dạy nghe môn tiếng Anh vào chơng trình là điều kiện tốt để học sinh có thể phát triển một cách đầy đủ các kỹ năng ngôn ngữ. Song dạy và học nghe Tiếng Anh còn " ;mới "đối với cả học... 28 6,115 34 ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ, THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN TRONG NHÀ ... trình dạy và học; là động lực để đổi mới phương pháp dạy học PPDH. Và kiểm tra là phương tiện và hình thức quan trọng, quyết định kết quả đánh giá. Trước nhu cầu bức thiết phải đổi mới PPDH ... việc đổi mới KTĐG của tổ Văn trường THPT Phan Đình Phùng trong thời gian qua, có lẽ chưa thật hoàn chỉnh. Bởi chúng tôi hiểu, đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, trong đó có cả việc đổi mới ... dụng So với các môn khác, Ngữ văn là môn học có nhiều nét đặc thù. Việc cải tiến, đổi mới trong đề thi, kiểm tra sẽ có tác động đáng kể tới phương pháp dạy - học của giáo viên và học sinh. Thời... 10 3,756 46 Sử dụng phương tiện trực quan trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn sinh học trường thcs ... trọng hệ thống phương pháp từng bước tiếp cận với phương pháp dạy học hiện đại, quan tâm đổi mới cơ sở vật chất, phương tiện dạy học. Trong đó phương pháp, phương tiện dạy môn Sinh học được coi ... đổi mới. - Trên cơ sở nưhngx quan điểm về đổi mới Phương pháp dạy học và thực trạng Phương pháp dạy học nói chung, môn sinh học nói riêng cùng với phương tiện trực quan định hướng đổi mới. Phương ... thay đổi Phương pháp dạy học nói chung, Phương pháp dạy học sinh học nói riêng và cơ sở vật chất đảm bảo, thực hiện tốt các phương pháp đáp ứng yêu cầu mục tiêu đào tạo. 6 2. Định hướng đổi... 22 3,290 11 ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ, THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT ... trình dạy và học; là động lực để đổi mới phương pháp dạy học PPDH. Và kiểm tra là phương tiện và hình thức quan trọng, quyết định kết quả đánh giá. Trước nhu cầu bức thiết phải đổi mới PPDH ... việc đổi mới KTĐG của tổ Văn trường THPT Phan Đình Phùng trong thời gian qua, có lẽ chưa thật hoàn chỉnh. Bởi chúng tôi hiểu, đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, trong đó có cả việc đổi mới ... dụng So với các môn khác, Ngữ văn là môn học có nhiều nét đặc thù. Việc cải tiến, đổi mới trong đề thi, kiểm tra sẽ có tác động đáng kể tới phương pháp dạy - học của giáo viên và học sinh. Thời... 10 1,852 15 Đổi mới phương pháp dạy học môn đia lý ... ,từ việc đổi mới cách soạn giáo án ,tổ chức dạy học ,đổi mới việc sử dụng các phơng pháp dạy học đến việc đổi mới công tác kiểm tra , đánh giá kết quả học tập của học sinh . a. Đổi mới trong công ... thế việc áp dụng đổi mới phơng pháp đạy học môn địa Lí là hết sức quan trọng , Bởi lẽ có đổi mới phơng pháp dạy học môn địa lí thì các em mới có điều kiện tốt nhất đợc trao đổi đợc chia sẻ những ... SKKN Đổi mới phơng pháp dạy học môn địa lý ở trờng THCS 8A 18% 63% 19% 8B 3% 68% 29% Qua kết quả này tôi nghỉ rằng việc đổi mới phơng pháp giảng dạy môn Địa lí nói riêng và các môn học khá... 19 3,532 71 Xem thêm Ngày đăng 22/10/2013, 1111 PHÒNG GD&ĐT GIO LINH TRƯỜNG THCS TRUNG GIANG  Đổi mới phương pháp dạy học dạy học GV HỒ THỊ MINH SANG Tổ Năng khiếu Năm học 2010- 2011 I. TÊN ĐỀ TÀI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌCC TRONG VIỆC PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM CỦA BỘ MÔN TIẾNG ANH  II. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Việc nâng cao chất lượng đối với bộ môn tiếng Anh tại các trường học, nhất là trường ở vùng nông thôn là một vấn đề quan trọng và cần thiết. Bởi do điều kiện sinh sống, ngoài một buổi đến trường, các em còn phải lao động phụ giúp gia đình, không có thời gian đầu tư cho bất kỳ môn học nào, nhất là bộ môn tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ. Cha mẹ các em thường không có thời gian, không đủ trình độ để kèm cặp thêm ở nhà. Đó là những nguyên nhân đã khiến tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng học sinh yếu kém Cho bộ môn tiếng Anh” * Một tiết học Tiếng Anh thật là nặng nề đối với các em . Cùng với sự đổi mới của chương trình và sự thiếu ý thức tự giác, độc lập, Tiếng Anh đến với các em thật không dể dàng , vì đây là lần đầu tiên các em tiếp xúc với bộ môn này. Thêm vào đó là sự thiếu quan tâm của các bậc phụ huynh và thiếu thời gian học tập, điều kiện học tập ở nhà. Phần lớn các em là con nhà nông, ngoài thời gian ở trên lớp, các em còn phải giúp bố mẹ trong công việc gia đình. Có nhiều em còn phải giúp bố mẹ với nhiều công việc nặng nhọc, cho n ên ảnh hưởng đến việc học ở nhà. Đa số gia đình các em còn khó khăn, nên việc tạo điều kiện cho các em một góc học tập đầy đủ thật khó. Ngoài ra một số các em chưa có ý thức tốt trong việc học. Coi việc học là đối phó với việc lấy điểm, lên lớp. Tất cả những yếu tố đó đã làm giảm đi khả năng tư duy, sáng tạo của các em. Nói như vậy không có nghiã rằng những học sinh bắt đầu học T iếng Anh không thể học được Tiếng Anh dể dàng như tiếng mẹ đẻ. Với vai trò là người dìu dắt, hướng dẫn bước đầu, bản thân giáo viên bộ môn phải tìm ra giải pháp tốt nhất để thầy và trò cùng đạt kết quả tốt trong môn học này. III. CƠ SỞ LÝ LUẬN - Tìm biện pháp “Nâng cao chất lượng học tập của học sinh yếu kém môn tiếng Anh” là một vấn đề nan giải, rất cần thiết đối với đa số giáo viên bộ môn nói chung, đặc biệt là bộ môn tiếng Anh nói riêng. Vấn đề này đã được giáo viên trong tổ thảo luận nhưng chưa tìm được biện pháp hữu hiệu nhất. Vì thế, là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn tiếng Anh, qua nhiều năm thực hiện tôi đã đúc kết được một số kinh nghiệm trong việc dạy phụ đạo học sinh yếu kém có hiệu quả. IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN - Trường THCS Trung Giang là một trường thuộc vùng ven biển của huyện Gio linh , là một trong những xã có nhiều hộ nghèo nhất trong huyện nên học sinh còn nhiều vất vả, phải phụ giúp cha mẹ hàng ngày ngoài giờ học, trong khi cha mẹ không hiểu biết về bộ môn tiếng Anh. Phần lớn các em là học sinh nghèo, còn lam lũ, nhiều em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không người quan tâm, kèm cặp ở nhà. Qua thực tế ở trường, cụ thể là những bài kiểm tra định kỳ 15 phút, 1 tiết, các bài thi do Phòng giáo dục, Sở giáo dục ra đề chất lượng bộ môn tiếng Anh chưa cao. Trong khi một số em khá giỏi rất hứng thú với phương pháp học tiếng Anh mới này thì một bộ phận những em yếu kém vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng nên dễ dẫn đến việc các em trốn học, nghỉ học, hay chán nản không muốn học bộ môn này. Những học sinh yếu kém khi tiếp xúc với hình thức đề kiểm tra hoặc đề thi, các em thường không biết nội dung yêu cầu của đề bài. Ví dụ như chuyển câu sang thể phủ định hoặc nghi vấn; chia động từ trong ngoặc; đặt câu hỏi cho từ gạch dưới hoặc từ trong ngoặc. Với dạng bài tập đặt câu hỏi, đa số học sinh yếu kém không biết cách làm bài, các em thường làm sai, hoặc bỏ trống, không ghi gì cả…. Do đó làm cho tinh thần công tác của giáo viên sa sút vì số học sinh yếu kém bộ môn còn nhiều, một số giáo viên dạy tiếng Anh còn hạn chế về mặt thi đua cuối năm do chất lượng bộ môn chưa đạt với mặt bằng đề ra. - Trước tình hình trên đòi hỏi người giáo viên phải suy nghĩ bằng nhiều cách để nâng cao chất lượng bộ môn ngày một cao hơn. V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU - Bao gồm cả công tác tư tưởng và tổ chức quản lý lớp. Cả hai biện pháp này không thể tách rời mà cần được sắp xếp đan chéo nhau, được phối hợp hài hoà có chủ định vì công tác tư tưởng là biện pháp hàng đầu, còn biện pháp tổ chức quản lý là nhân tố quyết định. 1. CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Như trên đã nói, đây là biện pháp hàng đầu để hỗ trợ cho biện pháp quyết định là tổ chức và quản lý học sinh. Thế nên trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh yếu kém môn tiếng Anh đã coi trọng công tác tư tưởng bằng các việc làm sau a. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình Học sinh ở trường THCS Trung Giang yếu kém môn tiếng Anh có nhiều hoàn cảnh đặc biệt, nhiều em mồ côi, cha mẹ ly hôn, các em phải sang ở với ông bà , cô dì….Một số ít là con được nuông chìu, được cha mẹ bao che các lỗi lầm. Các em có những đặc điểm tâm lý riêng, thế nên tôi thường thăm dò hoàn cảnh gia đình của các em qua sơ yếu lý lịch, bạn bè gần nhà, giáo viên chủ nhiệm và tìm ra biện pháp giáo dục thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng học tập của các em. b. Duy trì sỉ số Đi học đầy đủ là điều kiện tất yếu để học sinh học tốt. Cần quan tâm đến việc vắng mặt của học sinh trong lớp, vì phần lớn những học sinh trốn tiết, bỏ tiết là những em học yếu, chán học, sẽ có nguy cơ nghỉ học luôn. Những trường hợp như thế, giáo viên bộ môn cần thông báo kịp thời cho giáo viên chủ nhiệm để báo cho phụ huynh học sinh ngay, nhằm giúp các em chấn chỉnh lại, đưa các em trở lại lớp học. c. Xây dựng tốt mối quan hệ Thầy trò Học sinh yếu kém thường mang nhiều mặc cảm. Các em có hai mặt tâm lý đối nghịch nhau một số em quậy phá, nghịch ngợm, trốn học , bỏ tiết và một số em rút vào cái vỏ của mình qua những biểu hiện như nhút nhát, không phát biểu, xa lánh bạn bè, thầy cô. Biện pháp cần đặt ra ở đây là giáo viên phải thường xuyên quan tâm đến các em, gần gũi , trò chuyện, nâng đỡ các em, đôi lúc cũng phải cứng rắn quở phạt các em. Học sinh yếu thường phạm nhiều khuyết điểm kéo dài cả về học tập lẫn đạo đức, chúng ta không thành kiến với các em, không vội vàng cho điểm xấu mà phải tìm cách giúp đỡ để các em vượt qua khó khăn, ham thích học tập hơn. d. Nêu tấm gương sáng Chọn những em tiêu biểu nêu gương, mẫu cho các em noi theo. Khen thưởng những em yếu kém có tiến bộ dù chỉ 0,25 điểm nhằm khích lệ, động viên tinh thần của các em. e. Tìm hiểu, đóng góp ý kiến với cha mẹ học sinh Nhà trường và gia đình là cầu nối quan trọng trong việc học tập của các em. Cha mẹ phải thực sự là một “giáo viên” ở nhà, nhắc nhở các em chuẩn bị bài, học bài và hướng dẫn làm bài tập nếu được. Cha mẹ phải quan tâm đến con cái, phải sống lành mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Giáo viên bộ môn ít có dịp gặp trực tiếp cha mẹ học sinh. Do đó, chúng ta phải kịp thời báo những vi phạm của học sinh mình qua giáo viên chủ nhiệm để nhờ họ liên hệ phụ huynh, nếu cần có thể gặp gỡ họ trực tiếp để trao đổi một số vấn đề có liên quan. f. Tinh thần, trách nhiệm của người thầy Cũng như cha mẹ học sinh, người thầy cũng phải gương mẫu, là tấm gương cho học sinh noi theo. Người thầy phải có tinh thần trách nhiệm cao, không thành kiến bỏ rơi một học sinh nào. Luôn tìm tòi học hỏi không ngừng để cải tiến phương pháp, dùng nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. 2. CÔNG TÁC TỔ CHỨC QUẢN LÝ HỌC SINH YẾU KÉM a. Đánh giá chất lượng học tập của học sinh Nhằm đánh giá đúng mức độ học tập của học sinh, vào đầu năm học nhà trường thường tổ chức kiểm tra chất lượng đầu năm . Từ đó , giáo viên bộ môn có thể phân học sinh ra làm 5 nhóm giỏi - khá - trung bình - yếu- kém. Từ đó , giáo viên bộ môn lập danh sách theo dõi học sinh yếu kém , quan sát hàng ngày , ghi nhận kết quả qua từng kỳ kiểm tra. Muốn theo dõi chất lượng học tập của học sinh yếu kém một cách chính xác, giáo viên phải thực sự nghiêm túc trong việc coi và chấm trả. Việc làm này có đúng đắn, chúng ta mới nắm được các mặt tồn tại của học sinh để kịp thời phụ đạo bổ sung. Mỗi giáo viên bộ môn đều có trong tay sổ “ Theo dõi sự tiến bộ của học sinh”. STT Họ và tên Kết quả Đầu HKI Giữa HKI Cuối HKI Giữa HKII CuốiHKII b. Phụ đạo học sinh yếu kém Đây là một công tác cần phải có đối với những học sinh yếu kém. Ngay từ bài khảo sát chất lượng đầu năm và căn cứ vào tình hình học tập ở lớp dưới, giáo viên bộ môn có thể lập danh sách những em dưới trung bình để có thể cho vào lớp phụ đạo. Một học sinh yếu kém có tiến bộ hay không là nhờ vào sự phối hợp nhịp nhàng giữa ba môi trường nhà trường – gia đình – xã hội. Dựa vào danh sách học sinh yếu kém của từng lớp, Ban Giám Hiệu nhà trường tổ chức một buổi họp mặt phụ huynh của những em yếu kém đó nhằm thông báo cho phụ huynh về việc học tập của con em mình. Qua đó đa số phụ huynh đều đồng tình với việc phụ đạo cho con em họ. Nhờ có sự tổ chức quản lý của Ban Giám Hiệu nhà trường, việc dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém một phần nào đó cũng góp phần nâng cao chất lượng học tập. Trong quá trình dạy phụ đạo, tôi thường phân chia các em yếu ra từng nhóm khác nhau yếu về từ vựng hay yếu về ngữ pháp. Ở nhóm yếu về từ vựng, đa số các em không biết cách học từ vựng, không biết từ loại của từ, học mà không nhớ rõ nghĩa, hoặc nhớ nghĩa mà không thuộc từ. Đối với học sinh nhóm này, tôi yêu cầu các em mỗi ngày học ba từ vựng. Vào 15 phút đầu giờ, tôi nhờ cán sự bộ môn và một số em học giỏi trong lớp đi kiểm tra những em yếu từ vựng này và báo kết quả lại cho tôi. Đến ngày học phụ đạo lần sau, tôi sẽ kiểm tra tất cả từ vựng mà tôi đã yêu cầu các em học trong một tuần. Làm được như thế, đối với một em chịu học từ vựng một cách nghiêm túc thì chẳng bao lâu lượng từ vựng trong trí nhớ của các em sẽ được nâng lên rất nhiều. Riêng các em yếu về ngữ pháp, tôi sẽ phụ đạo cho các em theo từng loại hình bài tập khác nhau chia động từ trong ngoặc, chuyển câu sang thể phủ định hoặc nghi vấn, đặt câu hỏi với từ gạch dưới hoặc từ trong ngoặc… Trước khi đưa ra dạng bài tập nào đó, tôi thường dành 15 phút đầu giờ để nhắc lại những kiến thức cơ bản về phần ngữ pháp đó. Chẳng hạn, hôm nay tôi muốn yêu cầu học sinh làm bài tập chia động từ ở thì quá khứ đơn, trước khi đưa lên bảng một số câu cụ thể, tôi nhắc lại phần lý thuyết cơ bản. *Thì quá khứ đơn The Simple Past Tense Công thức Cách dùng Để diễn tả một hành động hay một sự việc đã xảy ra tại một thời điểm xác định ở quá khứ và chấm dứt trong quá khứ, thường đi kèm với các trạng từ sau last…, …ago, yesterday, before, in 2009… Chú ý Nếu động từ có qui tắc -> ta thêm –ED Nếu động từ bất qui tắc -> ta chuyển sang cột hai trong bảng động từ bất qui tắc. Nhắc lý thuyết trước như thế thì khi áp dụng làm bài tập, nhìn vào câu thấy có những từ đi kèm như yesterday, last Sunday, three years ago…thì các em dễ dàng chia động từ được ngay. Ex Exercise B 1 / – English Workbook 7 Complete the sentences with the simple present or simple past tense of the verbs b. She …… forget to brush her teeth yesterday. c. Last week the doctor ………… fill a cavity in my eighth tooth. ……………………………………………………………………………… h. Lan ………… have a health examination last month. Dựa vào những từ đã được học yesterday, last …, ….ago,học sinh có thể làm tốt như b. forget->forgot c. fill-> filled ……………………………………………………………………………… h. have-> had Và điều quan trọng khi làm bài tập dạng này là giáo viên bộ môn phải yêu cầu học sinh học thuộc lòng tất cả các động từ bất qui tắc. *Đối với dạng bài tập chuyển câu sang thể phủ định hoặc nghi vấn, giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hiện các bước sau Bước 1 xác định chủ từ, động từ. Bước 2 xác định thì của động từ. Bước 3 xác định loại động từ động từ thường hay động từ đặc biệt; động từ có qui tắc hay động từ bất qui tắc nếu ở thì quá khứ. Ex Exercise B2/ P. 56 – English Workbook 7 Complete the sentences with the verbs in the negative g. We returned home in the evening. We……………home in the afternoon. S Đây là loại bài tập hoàn thành câu với động từ ở thể phủ định, nói cách khác đây là loại bài tập chuyển câu sang thể phủ định. Muốn làm được bài này, giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện các bước sau - Xác định động từ returned - Xác định thì của động từ quá khứ đơn S+ V ed / V 2 + O - Xác định loại động từ động từ thường có qui tắc Muốn chuyển câu sang thể phủ định, chúng ta nên mượn trợ động từ vì động từ chính là động từ thường; vì câu chia ở thì quá khứ đơn nên trợ động từ cần mượn là“ did”, câu phủ định phải thêm “not”. Khi mượn trợ động từ thì động từ chính phải trả về nguyên mẫubỏ – ed. Vậy đáp án cho câu này là “ We didn’t return home in the afternoon” * Exercise A3/ p54 – English Workbook 7 Write the questions Ex a/ I went to Vung Tau for last Tet vacation. S V 2 Đây là dạng bài tập chuyển câu sang thể nghi vấn, để giúp học sinh làm được bài này, giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện các bước sau - Xác định chủ từ, động từ I , went - Xác định thì của động từ quá khứ đơn - Xác định loại động từ động từ thường bất qui tắc Với động từ thường ở thì quá khứ đơn, chúng ta mượn trợ “Did”. Vậy để chuyển câu này sang thể nghi vấn, ta thêm “Did” ở đầu câu và “went” trả về nguyên mẫu là “go”. Khi đó, ta có Did you go to Vung Tau for last Tet vacation? * Một dạng bài tập khác đặt câu hỏi với từ gạch dưới Với loại bài tập này, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện theo các bước sau - Xác định từ để hỏi cho từ hoặc cụm từ được gạch dươí. - Xác định chủ từ, động từ. - Xác định thì của động từ. - Xác định loại động từ. Ex Exercise A2 / P 69 – English Workbook 7 Write the question for the answer e. I visited the dentist because I had a terrible toothache Để làm được bài tập này, học sinh cần thực hiện các bước sau - Xác định từ để hỏi cho cụm từ được gạch dưới “Why?” - Những bước tiếp theo làm tương tự như chuyển câu sang thể nghi vấn, nhưng khác một điểm nhỏ là chuyển câu sang thể nghi vấn thì ta sẽ viết lại hết nguyên câu, nhưng đặt câu hỏi với từ gạch dưới, ta đặt từ để hỏi ở đầu câu, chuyển câu đó sang thể nghi vấn nhưng phải bỏ đi từ hoặc cụm từ được gạch dươí. Cụ thể là I visited the dentist because I had a terrible toothache S ->Why did you visit the dentist? *Tương tự như đặt câu hỏi với từ gạch dưới, đối với loại bài tập đặt câu hỏi với từ cho sẵn trong ngoặc, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện các bước sau - Xác định từ để hỏi dùng để hỏi cho từ hoặc cụm từ nào? cho cái gì? VD What? -> hỏi về vật , sự việc Who ? -> hỏi về người Where? -> hỏi về nơi chốn When? -> hỏi về thời gian Why? -> hỏi về nguyên nhân , lý do và - Xác định chủ từ, động từ. - Xác định thì của động từ. - Xác định loại động từ. Ex Exercise B3/ p. 56 – English Workbook 7 Write the questions with Wh- words b. We decorated our classroom on Saturday evening When? Giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện các bước sau - When? dùng để hỏi về thời gian, vậy nó hỏi cho cụm từ “on Saturday evening” đối với học sinh yếu kém, giáo viên cần nói thêm khi ta dùng “When” để hỏi thì cụm từ “ on Saturday evening” sẽ được bỏ đi - Những bước tiếp theo sẽ được làm tương tự như khi chuyển câu sang thể nghi vấn. Vậy đáp án chính xác là “When did you decorate your classroom?” Đối với mỗi loại bài tập được nêu trên , giáo viên nên “ model” làm mẫu cho các em xem một câu, những câu còn lại tương tự, chúng ta có thể yêu cầu học sinh lên bảng làm và giúp đỡ các em nếu thấy còn lúng túng. Cần chỉ cho các em biết cách phân biệt giữa yêu cầu chuyển sang nghi vấn và phủ định nghi vấn thì có từ “Question”, còn thể phủ định có từ “Negative”, đặt câu hỏi với từ gạch dưới hay từ trong ngoặc… Phụ đạo học sinh yếu kém chủ yếu là cho các em làm những dạng bài tập cơ bản. Khi các thao tác đã nhuần nhuyễn, giáo viên bộ môn có thể cho các em làm quen với các dạng đề kiểm tra, đề thi học kỳ để các em có được những kỹ năng làm bài tốt hơn. Mỗi một buổi dạy phụ đạo là một loại hình bài tập khác nhau. Sau 4 tiết phụ đạo sẽ có một bài kiểm tra xem mức độ hiểu bài của các em có tiến triển không? Các em có làm được bài tập đã học chưa? Nhờ biện pháp này mà nhiều năm qua, khi nhìn đề kiểm tra của trường, Phòng giáo dục ra đề, tôi có thể đoán gần chính xác số học sinh trên, dưới trung bình ở các lớp mình đang giảng dạy. c. Ý kiến của các giáo viên bộ môn Anh văn Nguyên nhân học sinh yếu kém bộ môn này do đa số lười học bài, một số có khả năng tiếp thu kém, học sau quên trước do lượng từ vựng rất nhiều. d. Về chỗ ngồi của học sinh, giáo viên bộ môn cần lưu ý Có một thời gian tôi thường xếp học sinh yếu kém ngồi kế bên em học khá giỏi trong lớp, nhưng đã thất bại vì có lắm tình trạng em giỏi học thay cho em yếu kém nhắc bài, cho bạn yếu chép bài làm của mình… Học sinh yếu kém thường chán học, lo ra, nên “ưu tiên” xếp các em ngồi ở những bàn trên, em cao to ngồi bên trong để không che khuất các em nhỏ bên dưới, ngồi gần giáo viên các em có tâm lý lo sợ, không dám xao lãng trong giờ học. e. Sách vở Sách vở rất cần thiết trong việc học ở nhà, chuẩn bị bài tốt cho tiết học tới. Do đó phải thường xuyên kiểm tra sách vở của nhóm yếu kém này. Giáo viên bộ môn nên phân công học sinh giỏi bộ môn cán sự bộ môn có tập vở sạch đẹp, đúng yêu cầu để kiểm tra sách vở, góp ý với bạn và báo cáo cho giáo viên. Kiểm tra và tự kiểm tra lẫn nhau của học sinh làm giảm nhẹ lao động của giáo viên, mà vẫn bảo đảm chính xác. Giáo viên bộ môn chỉ còn nhiệm vụ bao quát và thỉnh thoảng gọi một vài học sinh yếu kém bất kỳ để kiểm tra lại. Phát hiện ngay từ đầu những học sinh không đủ sách vở cần thiết theo yêu cầu bộ môn để buộc các em mua. Đối với những em nghèo, khó khăn, giáo viên có thể mượn sách ở thư viện thay cho các em. f. Kiểm tra Kiểm tra thường xuyên và giúp đỡ cụ thể rất cần thiết cho các em yếu kém, vì những em này với tâm lý chán học, nếu không kiểm tra các em sẽ chẳng chịu học gì cả. Biện pháp Nhờ cán sự bộ môn truy bài vào 15 phút đầu giờ, nếu hôm đó có tiết Anh văn. Giáo viên kiểm tra các em thường xuyên bằng nhiều hình thức miệng, viết, trắc nghiệm. Phát hiện những em lệch lạc, có chuyển biến nên ghi vào sổ theo dõi tình hình học tập bộ môn. Kiểm tra ngắn gọn ngoài giờ học chính thức để khỏi mất thời gian trong tiết học. Gạt bỏ quan niệm chỉ cho điểm kiểm tra theo số cột qui định là đủ. Quan niệm này thường dẫn đến tình trạng học sinh được kiểm tra rồi sẽ ỷ lại, không học bài nữa. Biện pháp kiểm tra thường xuyên phải được làm từ lớp dưới, để phát hiện được chỗ yếu kém của học sinh và kiên trì, bổ sung những lỗ hỏng kiến thức thì các em mới có thể tiếp thu một cách vững vàng kiến thức ở lớp trên. Giáo viên chúng ta thường chú ý đến khâu soạn bài, lên lớp đủ các bước, dạy đúng phân phối chương trình là biểu hiện chỉ tốt ở bước đầu. Vấn đề tổ chức học sinh học tập trong lớp, ở nhà giữ một vai trò quan trọng. Thế nên lấy biện pháp kiểm tra thường xuyên, phát hiện học sinh học bài, làm bài, cải tiến cách học như thế nào có hiệu quả là điều cấp thiết để nâng cao chất lượng học tập của học sinh. g. Dự giờ thao giảng Dự giờ , quan sát , ghi chép , học tập kinh nghiệm của các giáo viên trong tổ để bổ sung những thiếu sót về phương pháp, về quản lý học sinh yếu kém trong tiết học. Qua các lần kiểm tra các sản phẩm của học sinh ,ta thấy không phải lúc nào số lượng yếu kém cũng giảm theo từng thời kỳ lần 2 số yếu kém ít hơn lần 1, lần 3 giảm hơn lần 2… VI. PHẦN KẾT LUẬN Tìm biện pháp “ Nâng cao chất lượng học tập của học sinh yếu kém” là vấn đề tôi nghĩ mọi giáo viên đều quan tâm. Các giáo viên bộ môn Anh văn nói riêng và tất cả giáo viên bộ môn ở trường THCS Trung Giang nói chung cũng đã áp dụng toàn bộ hoặc một số biện pháp tương tự như trên. Nhưng muốn thành công trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh ở bộ môn mình đồng đều, giáo viên đóng vai trò quyết định, vì thực hiện các biện pháp trên rất mất thời gian, và kéo dài cả năm học, giáo viên phải kiên trì với quyết tâm “Tất cả vì học sinh thân yêu”.Làm được như thế chắc chắn chúng ta sẽ được đền bù xứng đáng từ những “sản phẩm yếu kém” đầu năm của chúng ta đến cuối năm trở nên khá hoàn hảo. Qua đề tài nghiên cứu này, chắc chắn tôi chưa đưa ra được hết các biện pháp nâng cao chất lượng học tập của học sinh, nhất là học sinh yếu mong nhận được sự ủng hộ của lãnh đạo cấp trên , ý kiến đóng góp xây dựng của quý đồng nghiệp để tôi có thể rút kinh nghiệm, học hỏi nhằm nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân. TRUNG GIANG NGÀY 15 THÁNG 10 NĂM 2010 .  Đổi mới phương pháp dạy học dạy học GV HỒ THỊ MINH SANG Tổ Năng khiếu Năm học 2010- 2011 I. TÊN ĐỀ TÀI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌCC TRONG VIỆC PHỤ ĐẠO HỌC. “Nâng cao chất lượng học sinh yếu kém Cho bộ môn tiếng Anh * Một tiết học Tiếng Anh thật là nặng nề đối với các em . Cùng với sự đổi mới của chương trình - Xem thêm -Xem thêm Đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Anh, Đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Anh, Giáo viên chia học sinh thành từng cặp để em học giỏi kèm em học yếu nhằm giúp bạn nâng cao trình độ ảnh minh họa. Ảnh Đối với môn tiếng Anh, thay vì sau khi dạy xong vài bài thì giáo viên GV mới ôn tập cho học sinh HS kiểm tra một tiết, hoặc sau khi dạy xong một số bài nhất định nào đó mới tổ chức ôn tập để HS kiểm tra học kỳ… Đổi lại, GV nên giúp HS ôn tập ngay sau khi dạy xong một đơn vị bài học. Theo đó, khi thầy cô đã nắm trong tay danh sách các điểm ngữ pháp cần thiết nhất để giúp HS ôn tập thì phải bắt tay vào làm việc này trước. GV sẽ đánh máy toàn bộ các dạng bài tập được trích ra trong sách bài tập sẽ cho HS sử dụng tại lớp theo từng chủ điểm ngữ pháp. Để thực hiện được điều này, GV cần1. Lên kế hoạch cụ thểSau khi đã thống kê các dạng bài tập thuộc các điểm ngữ pháp cần phải ôn tập cho HS, GV sẽ yêu cầu các em chia cuốn tập ra từng phần riêng biệt theo từng điểm ngữ pháp đã chọn. Ví dụ 10 trang dành cho phần các thì và các dạng của động từ; 8 trang dành cho phần câu bị động; 5 trang dành cho phần giới từ… Khi dạy xong một đơn vị bài học, đã cho HS làm bài tập đầy đủ và đã giải đáp cẩn thận các yêu cầu của bài tập, GV sẽ yêu cầu các em về nhà liệt kê hết những loại bài tập có liên quan đến những điểm ngữ pháp chính. Để giúp cho HS không bị nhàm chán và không có cảm giác nặng nề thầy cô nên tổ chức cho các em hoạt động theo cặp. Một cặp HS cùng làm việc với nhau thì nên có trình độ khác nhau; GV nên động viên các bạn khá giỏi cần phải có tinh thần giúp đỡ bạn và thuyết phục các em để các em nhận ra rằng đây là một cơ hội tốt để tự nâng cao trình độ của mình khi nhận ra được lỗi sai của bạn. GV sẽ cho hai HS trong cùng một cặp trao đổi vở cho nhau; lần lượt thay phiên nhau đọc lên từng câu một để cùng kiểm tra xem bạn mình đã viết lại các câu ấy chính xác chưa. Lưu ý một điều là khi em nào phát hiện chỗ sai của bạn thì nên dùng bút đỏ sửa ngay lỗi sai đó. Trong khi HS làm công việc này, GV sẽ đi quanh lớp học để đảm bảo tính nghiêm túc của công việc. Bên cạnh đó GV sẽ đưa ra sự trợ giúp cần thiết nếu được các em yêu Phần ôn tập của HSGV yêu cầu HS về nhà ôn tập những điểm ngữ pháp nhất định nào đó theo qui định của bài kiểm tra. Lên lớp GV phát tài liệu cho HS làm để kiểm tra xem các em đã nắm kỹ bài chưa! Sau khi các em làm xong GV sẽ cho HS chấm chéo bài của nhau, vì đây là những bài tập HS đã từng làm rồi. Trong quá trình sửa bài GV nên yêu cầu HS dùng bút đỏ làm nổi bật lên những chỗ sai để các bạn sẽ chú ý tập trung và học kỹ những phần đó giúp HS thống kê những điểm ngữ pháp theo từng đơn vị bài học sẽ giúp các em nhìn lại toàn bộ kiến thức đã học, đã làm để qua đó các em có thể xem lại điểm ngữ pháp nào còn chưa vững nhằm kịp thời điều chỉnh ngay trước khi qua bài mới. Ngoài ra việc làm đi làm lại những dạng bài tập đã từng làm sẽ giúp cho các em nắm vững và nhớ lâu những kiến thức đã học. Nhờ đó sẽ cảm thấy tự tin khi làm bài kiểm tra. Biện pháp này còn giúp HS tự tích lũy cho bản thân một số vốn kiến thức căn bản cần thiết về ngữ pháp tiếng Anh. Ngoài ra trong mỗi một lớp học đều có những thành phần HS chậm hiểu hoặc HS lười biếng khiến cho tiến trình thực hiện công việc chắc chắn sẽ gặp không ít cản trở. Đối với những HS chậm hiểu thì khi phân cặp GV phải phân cho những HS đó làm việc cùng với những HS vừa giỏi, vừa cẩn thận, và phải thật sự tế nhị để không chạm tự ái và lòng tự trọng của bạn. GV cũng cần duy trì chặt chẽ việc cho HS cùng nhau đọc ra thành tiếng những bài tập mà các em đã sửa cho nhau; vì khi đọc lên như thế sẽ giúp cho kiến thức phản hồi ngược lại trong tâm trí HS như thế sẽ giúp các em nhớ lâu hơn phần kiến thức đã Thị Thúy Hằng GV Trường THCS Độc Lập, Phú Nhuận

đổi mới phương pháp dạy học môn tiếng anh